Nguyễn Văn Chương,Võ
Văn Quang1
Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc
1.
Giới thiệu
Mè (Sesamum indicum L.) còn gọi là vừng, là loại cây có dầu, cây thực phẩm hiện đang
được rất nhiều quốc gia quan tâm và có định hướng phát triển do có hàm lượng dầu
cao, chất lượng tốt. Cây mè có thời gian sinh trưởng ngắn, thuận
lợi trong tiêu dùng ở phạm vi nông hộ, đồng thời cũng là cây trồng “dễ tính”,
ít đòi hỏi thâm canh, có khả năng tận dụng đất đai, mùa vụ, dễ tiêu thụ trên thị
trường, thích hợp luân, xen canh và gối vụ.
Trong
đời sống hiện nay, dầu thực vật đã trở thành một nguyên liệu rất quan trọng cần
thiết, là một trong những nguồn dinh dưỡng cải thiện sức khỏe con người và có
nhu cầu ngày càng tăng. Theo Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công nghiệp
(IPSI) ước tính tiêu thụ dầu thực vật trên đầu người năm 2011 vào khoảng từ 7,3
– 8,3kg/người, tuy nhiên, con số này vẫn còn khá xa so với khuyến nghị của Tổ
chức Y tế Thế giới (13,5kg/người/năm). Các nhà sản xuất trong nước dự báo tiêu
thụ dầu thực vật trên đầu người nước ta năm 2015 sẽ tăng ở mức 14,5kg/người/năm
(Vietrade, 2012), qua đó cho thấy, để bảo đảm được sức khỏe của con người, dầu
thực vật là nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống hiện nay. Khai thác dầu thực vật ngoài cây mè còn có
nhiều cây trồng khác trong đó có đậu tương và lạc, hiện cả 2 loại cây trồng này
Việt Nam đang bị thiếu nguyên liệu trầm trọng. Do sự thiếu hụt này, Việt Nam phải
nhập khẩu hàng năm từ 1 – 1,3 triệu tấn đậu tương (gấp 7 lần sản lượng đậu tương
sản xuất được trong nước) để chế biến dầu thực vật và thức ăn gia súc
(Vietrade, 2012). Trên đà gia tăng dân số và phát triển đàn gia súc, nhu cầu dầu
thực vật và nguyên liệu thức ăn gia súc ngày càng tăng, trong khi diện tích các
cây trồng này ngày càng bị giảm sút, điều này cho thấy ngành dầu Thực vật Việt
Nam đang đứng trước nguy cơ cảnh báo sẽ thiếu nguyên liệu để khai thác.
2.
Những lợi thế của vùng cần chuyển đổi cơ cấu
Đồng
bằng sông Cửu Long là một bộ phận của vùng
châu thổ sông Mê Kông, gồm 1 thành phố và 12 tỉnh, với diện tích 3,96
triệu ha, trong đó đất nông nghiệp khoảng 2,60 triệu ha. Trong quỹ đất nông
nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm trên 50%, với lúa là chủ yếu, chiếm trên
90%. Đặc điểm nổi bật của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long là gần một nửa diện tích
của vùng thường bị ngập nước từ thượng nguồn sông MêKông 3 – 4 tháng/ năm, đã được
bù đắp một lượng phù sa rất lớn giúp cải tạo được đất canh tác (Nguyễn Xuân Hiền, 2012).
Trước đây, tại ĐBSCL sau mùa lũ là vụ lúa
Đông Xuân truyền thống, có nhiều nơi sản xuất tiếp 1 đến 2 vụ lúa nữa để cung ứng
nguyên liệu gạo xuất khẩu. Hiện nay, dưới áp lực về giá và số lượng, tình hình
xuất khẩu gạo đã bị trì trệ, lượng lúa gạo dư thừa tăng cao, giá bán thấp đã ảnh
hưởng đến tình hình kinh tế xã hội của vùng. Người dân bắt đầu có nhiều chọn lựa
để xác định cơ cấu cây trồng có hiệu quả và bền vững.
Vụ Xuân Hè tại ĐBSCL (từ tháng 2 đến tháng 5
hằng năm) là vụ trồng có nhiều lợi thế, do có một nền nhiệt độ cao, ánh nắng dồi
dào, nhưng đất có ẩm độ cao vì ảnh hưởng của mực nước ngầm và vụ lúa trước, đây
là lợi
thế riêng biệt mà các nơi khác không có được, đặc điểm khí hậu này rất thuận
lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây mè. Trong những năm gần đây, tại
ĐBSCL diện tích mè đang có chiều hướng gia tăng nhanh bởi hiệu ứng của việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở một số địa phương. Tại An Giang, Cần Thơ, Đồng
Tháp và Long An ước có khoảng gần 7000ha mè, chiếm 17% diện tích mè cả nước,
trong đó Đồng Tháp và An Giang là 2 tỉnh có năng suất bình quân cao nhất 1,2 –
1,4 tấn/ha (Trần Thị Hồng Thắm, 2008; Nguyễn Thị Phương Lan, 2013).
Với
điều kiện đất đai và khí hậu thời tiết thuận lợi, giá lúa thấp, sản xuất lúa rủi
ro cao, cây mè có thời gian sinh trưởng ngắn, chi phí đầu tư thấp, giá bán
nguyên liệu ổn định, nguyên liệu có nhu cầu cao trên thị trường, giá mè thương
phẩm khoảng 30.000 – 35.000 đồng/kg, với năng suất bình quân 1,0 - 1,3 tấn/ha thì lợi nhuận do cây mè mang lại
rất lớn gấp 2 -3 lần so với cây lúa. Mè
là cây trồng cần quan tâm phát triển để chuyển đổi cơ cấu trong giai đoạn hiện
nay trong các mô hình luân canh, xen canh và gối vụ, đem lại hiệu quả kinh tế
cho người dân và đảm bảo nguồn nguyên liệu sản xuất dầu thực vật.
3. Một số giống mè, TBKT mới đã và đang áp
dụng thành công
Trước đây, nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long canh tác chủ yếu các
giống mè địa phương như mè Vàng Châu Phú, mè Vàng Cồn Khương, mè đen Trà Ôn, mè
đen Campuchia. Do không được phục tráng và áp dụng biện pháp canh tác không phù
hợp nên hầu hết các giống địa phương đều bị thoái hóa lẫn tạp. Qua nhiều năm
nghiên cứu một số cơ quan đã phóng thích cho sản xuất một số giống mè tốt như
sau:
3.1 Giống
mè V6
V6 là giống nhập nội từ
Nhật Bản, được Trung tâm Khuyến nông Nghệ An chọn lọc từ 1994 – 1996.
-
Thời gian sinh trưởng 75-80 ngày.
-
Khả năng thích nghi rộng.
-
Màu hạt vàng nhạt, tỷ lệ dầu 52-53%.
-
Năng suất 0,8 - 1,2 tấn/ha
Là
giống mè chủ lực ở các tỉnh phía Nam, đã được sản xuất trên nhiều vùng sinh
thái miền Nam qua chương trình KC 06.
3.2 Giống mè đen NA2
Giống
được Viện Khoa học Nông nghiệp Bắc Trung Bộ thu thập từ Ấn Độ và được Viện Khoa
học Nông nghiệp Việt Nam
tuyển chọn lại từ năm 2011 (Phạm
Thị Phương Lan, 2011).
-
Thời
gian sinh trưởng: 75 ngày.
-
Khả
năng chống chịu bệnh chết nhát (2,50%), chống chịu sâu ăn lá cấp 1.
-
Hàm
lượng dầu 50,79%.
-
Năng
suất 1.893 kg/ha trong vụ Đông - Xuân và 1.630 kg/ha trong vụ Xuân- Hè.
-
Đã
áp dụng thành công trên cả nước.
3.4 Giống mè đen ADB 1
Giống mè đen ADB 1 được Viện KHKTNN miền Nam phục tráng từ giống mè địa
phương của ĐBSCL. Quy trình kỹ thuật canh tác đồng bộ cho cây mè đen trên chân
đất lúa ở các tỉnh phía Nam đã được hoàn thiện (2009-2012).
-
Dạng
hình thấp cây (100-120 cm), phân cành mạnh (4-6 cành/cây), độ cao đóng trái thấp
(từ mặt đất đến vị trí có trái đầu tiên từ 30-40 cm), không đổ ngã;
-
Thời
gian sinh trưởng ngắn (70-75 ngày);
-
Nhiều
trái (80-150 trái/cây), trái lớn, mỏ trái thẳng, trái có 4 múi - 8 hàng hạt,
các trái đóng sít nhau trên đốt thân, cành;
-
Năng suất
cao, đạt 1.250 kg/ha trên vùng đất xám bạc màu (Long An, An Giang) và từ 1.750
kg - 2.000 kg/ha ở vùng đất thịt, phù sa (An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long).
-
Hàm lượng
dầu (48,8%) cao hơn so với giống địa
phương (45,5%);
-
Khả năng
chống chịu sâu ăn lá, bệnh thối cây và khả năng chịu hạn cao hơn giống địa
phương, thích nghi rộng, có thể trồng trên nhiều loại đất như cát pha, đất xám
bạc màu, đất thịt, phù sa.
Đã
áp dụng thành công ở Long An.
3.5 Giống mè đen 2 vỏ Bình Thuận
-
Giống
mè đen 2 vỏ Bình Thuận được Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc
phục tráng từ giống mè địa phương của tỉnh Bình Thuận theo phương pháp phục
tráng cây trồng tự thụ tuộc Tiêu chuẩn ngành. Giống được kiểm định bởi Trung
tâm Khảo, Kiểm nghiệm giống cây trồng Phía Nam năm 2012.
-
Thời
gian sinh trưởng: 75 – 81 ngày.
-
Hàm
lượng dầu 47,5%.
-
Giống
chống chịu tốt với bệnh Héo tươi (Fusarium oxysporium F seami), Đốm lá (Pseudomonas seami).
-
Năng
suất 1,0 – 1,4 tấn/ha.
3.6 Một số mô hình canh tác cây mè thành
công
Tại Bình Thuận, trồng giống mè đen 2 vỏ Bình Thuận với khoảng cách 60cm x 15 cm x 2 - 3 hạt/ hốc, lượng phân bón
120N + 60 kg P2O5 +60 K2O + 300 kg vôi/ha cho năng suất 1.000kg/ha,
mang lại lợi nhuận 14 triệu đồng/ha. Trồng giống mè địa phương chưa được phục
tráng bằng phương pháp sạ hàng, lượng phân bón là 250 kg NPK (16-16-8) cho năng
suất 400 kg/ha, mang lại lợi nhuận 2,5 triệu đồng/ha, giá trị lợi nhuận tăng
thêm từ mô hình so với đối chứng là 11,5 triệu đồng/ha (Nguyễn văn Chương, Võ
văn Quang, 2013).
Tại An Giang, qua
các mô hình trình diễn và chủ động sản xuất của nông hộ. Số liệu điều tra năng
suất thực tế trên ruộng của 10 hộ nông dân trồng mè tại xã Mỹ Hiệp, huyện Chợ Mới
bình quân đạt 1.456 kg/ha, tại xã Bình Thủy, huyện Châu Phú đạt 1.420 kg/ha và
tại Lương An Trà, huyện Tri Tôn đạt 658 kg/ha. Năng suất giống mè ADB1 và NA2 tại
các ruộng mô hình đều cao hơn so với giống mè đen đối chứng tại địa phương,
trung bình đạt 1.650 kg ở Châu Phú, 1.595 kg/ha tại Chợ Mới và 772 kg tại Tri
Tôn, cao hơn so với kỹ thuật truyền thống của nông dân tương ứng là 194, 175 và
114 kg/ha. Tổng chi phí sản xuất cho 1 ha mô hình tại Châu
Phú và Chợ Mới khoảng 20 -21 tr.đ/ha. Lãi thuần cho người trồng mè tại An
Giang, trong vụ XH 2012 đạt 25,33 tr.đ/ha tại Châu Phú; 24,96 tr.đ/ha tại Chợ Mới
và 10,67 tr.đ/ha tại Tri Tôn, tăng so với mô hình nông tương ứng là 30,2%; 27,0%;
và 24,8%. Lãi thuần mô hình kỹ thuật gia tăng chủ yếu do tăng năng suất (Phạm
Thị Phương Lan, 2011).
Tại
Cao Lãnh, Đồng Tháp, vụ Xuân hè 2012, UBND xã Bình Hàng Trung triển khai Mô
hình canh tác mè trên nền đất lúa với qui mô 40 ha/50 hộ. Nông dân trồng giống
mè đen với lượng giống 4 – 5kg/ha, bón phân cân đối theo quy trình kỹ thuật,
năng suất đạt 1,4 tấn/ha, giá bán 32.000 đồng/kg. Tổng thu nhập là 44,8 triệu đồng,
sau khi trừ chi phí lợi nhuận đạt 29 triêu đồng/ha. Trong khi đó, lúa vụ Hè Thu
cho năng suất 5,8 tấn/ha, giá bán 5.400 đồng/kg, tổng thu nhập là 31,3 triệu đồng/ha,
sau khi trừ chi phí lợi nhuận đạt 11triệu đồng/ha. Như vậy, cây mè trồng 75
ngày có lợi nhuận gấp 2,5 lần so với trồng lúa khoảng 100 ngày (Lê Thị Xuân Đào,
2012).
Tại
Ô môn, Cần Thơ, ở Phường Thới Long, nông dân trồng mè đạt năng suất 1,8 tấn/ha,
giá bán 32.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí lợi nhuận đạt khoảng 30 triệu đồng.
Trong khi đó giá lúa hiện lợi nhuận nông dân thu được khoảng 10 triệu đồng/ha.
Ông Trần Thanh Sang - Phó Chủ tịch UBND phường Thới Long đã khẵng định “Phường
đã chủ trương đấy mạnh việc luân canh màu trên ruộng lúa. Toàn phường Thới Long
có 860ha đất trồng lúa, hiện nay đã chuyển đổi được 619ha sang trồng 1 vụ mè
luân canh. Địa phương cũng đánh giá đây là một cây màu có triển vọng nên đang đẩy
mạnh việc tập huấn kỹ thuật và nhân rộng mô hình này trong những vụ lúa tới”
(Nguyễn Công Thành, 2013).
4. Giải pháp kiến nghị
Để áp dụng việc chuyển đổi cơ cấu
cây trồng từ 3 vụ lúa sang 2 lúa – 1 mè hoặc 2 vụ lúa sang 1 lúa – 1 mè một
cách bền vững, đòi hỏi:
-
Phải có thị trường ổn định.
-
Công ty thu mua, chế biến cần có chính sách hỗ
trợ nông dân, giá thu mua ổn định, đem lại lợi nhuận cho nông dân để đảm bảo
nguồn nguyên liệu chế biến.
-
Chính quyền địa phương cần quan tâm phát triển kết
cấu hạ tầng, bao gồm hệ thống thủy lợi, kênh mương nội đồng,
-
Nông dân cần áp dụng giống mới và chăm sóc mè
theo quy trình kỹ thuật, áp dụng cơ giới hóa trong các khâu làm đất, chăm sóc
và thu hoạch để hạ chi phí giá thành sản xuất.
-
Cơ quan quản lý cần có chính sách đầu tư để các
nhà khoa học nghiên cứu xác định cơ cấu giống và kỹ thuật canh tác cây mè thích
hợp cho từng địa phương.